Ở đời người ta thường cho hạnh phúc là có được cái này, có được cái kia : có nhà lầu, xe hơi, có vợ đẹp, con ngoan, có tài sản, quyền thế, v.v… Khi chưa có thì muốn có, làm đủ mọi cách để cho có. Có rồi thì sợ mất hoặc xem thường rồi lại muốn có cái khác. Nếu có không được thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở.
Người biết tu thì thấy “không có” là một hạnh phúc. Không có ở đây là do trí tuệ quán chiếu thấy mọi sự phiền toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu không muốn có, nếu đã có rồi thì tập xả ly. Vì những thứ “có” trên thế gian này đều là ràng buộc.
Tuy nhiên đối với những người chưa có, chưa thỏa mãn được những mong ước, thèm khát, còn mải mê chạy theo vật chất thì xả ly là một việc thật khó làm, vì họ chưa có thì lấy gì mà xả bỏ.
Ðức Phật đã có vợ con, vàng bạc, của cải, cung tần mỹ nữ, đầy đủ vật chất mà trong lòng vẫn nặng trĩu âu lo, không cảm thấy hạnh phúc. Do đó ngài mới xả bỏ ra đi tìm chân lý, tìm hạnh phúc chân thật. Trong khi đó có những người tu lại chạy theo vật chất, của cải, tài sản, danh lợi bởi vì trong đời họ chưa được thỏa mãn, chưa cảm thấy có đầy đủ. Chỉ khi nào có được rồi và trải qua kinh nghiệm thấy những thứ mà họ đã nhọc công tìm kiếm chỉ đem lại phiền toái và khổ đau thì lúc đó ý nghĩ xả ly mới xuất hiện.
Trước hết có thân thì phải lo cho thân ăn, mặc, ở. Phải đi làm kiếm ăn, phải mua quần áo mặc, phải thuê nhà ở. Khi thân đau ốm phải lo thuốc men, chạy chữa. Nếu có gia đình thì phải lo làm ăn buôn bán kiếm tiền nuôi vợ, nuôi con. Suốt ngày chỉ lo suy nghĩ và làm đủ mọi chuyện cho cái ta và những thứ của ta.
Hạnh phúc xả ly tương đương với thiểu dục tri túc, có nghĩa là tâm không ham muốn, và luôn cảm thấy đầy đủ dù trong tay không có gì hết. Với người tu, không có sở hữu gì thật là một hạnh phúc. Nói như vậy có vẻ ngược đời, nhưng người tu là kẻ đi ngược dòng đời kia mà !
Xả ly giống như người đang mang gánh nặng trên vai mà đi, nay bỏ được gánh nặng xuống thì cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng vô cùng. Người tu cần tập xả ly, vì xả nhiều chừng nào thì nhẹ chừng nấy. Xả ly không có nghĩa là phải vứt bỏ hết tài sản, của cải mà ta đang có.
Xả ly trước hết là xả bỏ sự ham muốn và buồn giận trong tâm, kế đến là xả bỏ sự bám víu vật chất bên ngoài. Tuy sống giữa tài sản, vật chất sung túc, nhưng tâm không còn nhớ nghĩ những thứ đó là của ta nữa, nếu có ai xin hoặc mất thì ta xem như nhẹ gánh nặng.
Tập xả ly tới mức cùng cực thì khi chết, ta sẽ xem như trút hết gánh nặng, nhất là cái thân tứ đại này. Ta đã phải mang nó trên vai suốt cả cuộc đời, nay bỏ được nó, há không phải là sung sướng lắm sao? Vì thế nên các thiền sư đắc đạo, khi chết đều vui vẻ an nhiên ra đi tự tại.
Khi đói thì ta thèm ăn, nhưng khi ăn thì đòi thứ này thứ kia rồi ăn cho cố, cho no, rồi đau bụng, nặng bụng, khó thở. Khi khát thì thèm uống, nhưng khi uống thì uống những thứ độc hại như rượu bia, rồi say mèm, ói mửa. Nhiều khi sinh ra ung thư hay xưng gan.
Ở thế gian này, cái cảm giác khoái lạc nhất mà con người đều đi tìm là tình dục. Nhưng xét cho kỹ, tình dục chẳng qua là một nhu cầu thú tánh. Những thứ mà ta cho là sung sướng hạnh phúc, đó chỉ là một loại cảm giác mạnh, thô trược, bất tịnh. Chư thiên ở trên cao nhìn xuống thấy chúng ta chẳng khác gì đàn heo lăn lộn trong chuồng dơ mà cảm thấy thích thú.
Người tu là người đi tìm hạnh phúc chân thật, hạnh phúc này chỉ có khi tâm không còn bám víu, dính mắc, thèm khát mọi sự vật trên đời này. Như vậy hạnh phúc chính là sự giải thoát của tâm ý. Và muốn có giải thoát thì phải tập xả ly. Hãy nhìn vào tự tâm, xem mình còn bám víu, dính mắc, ưa ghét cái gì không ? Có người xả bỏ được vợ con nhưng lại dính mắc vào chùa chiền, xả bỏ được tài sản nhưng lại dính mắc vào danh lợi, địa vị. Xả bỏ được cái này nhưng rồi lại dính mắc vào cái khác, vì thế nên tu cả đời mà nghiệp vẫn nặng làm sao giải thoát được ?
Thích Trí Siêu