Khi Phật ở nước Xá Vệ, có một thiện nam tử sau khi nghe ngài thuyết pháp, đã xin xuất gia theo Phật. Vị ấy tinh cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A la hán. Các vị đồng tu đều gọi ngài là trưởng lão Tăng Hộ. Khi ngài xuất gia, em gái ngài vừa hạ sinh một bé trai và lấy tên ngài đặt cho hài nhi, gọi là Tăng Hộ cháu.
Lớn lên, Tăng Hộ cháu cũng theo cậu xuất gia và được hầu cận ngài. Sau khi thọ đại giới, Tăng Hộ cháu đến an cư tại một khu làng và được cúng dường hai bộ y tốt. Với ý định cúng dường cậu sau mùa an cư, Tăng Hộ cháu để dành lại một bộ y.
Khi mãn hạ, Tăng Hộ cháu trở về tịnh xá Cấp cô Độc đảnh lễ Phật và ra mắt cậu. Nhưng cậu đi an cư chưa về. Tăng Hộ cháu quét dọn am thất của cậu, múc sẵn nước rửa chân, sửa soạn nước uống và các thứ cần dùng cho tôn giả. Khi tôn giả trở về, Tăng Hộ cháu ra đảnh lễ cúng dường bộ y mới cho tôn giả, nhưng tôn giả từ chối: – Ta đã có đủ ba y. Con hãy giữ lấy.
Sau khi múc nước cho tôn giả rửa chân, ngồi nghỉ, Tăng Hộ cháu đứng hầu một bên lại thưa: – Bạch tôn giả, xin tôn giả nhận lấy bộ y con cúng dường để cho con được chút phước mọn.
– Thôi đi, con hãy giữ lấy. Ta đã có đủ y rồi.
Năn nỉ nhiều lần nhưng tôn giả vẫn từ chối. Đứng quạt sau lưng tôn giả, Tăng Hộ cháu trong lòng không vui, thầm nghĩ: “Tôn giả ở ngoài đời là cậu ruột của ta, ta là cháu ruột của ngài. Từ khi xa cha mẹ đi tu, ta được ở chung với ngài, hầu cận ngài, thọ giáo với ngài. Ta đối với tôn giả vừa có tình ruột thịt vừa tình thầy trò, thế mà tôn giả vẫn lạnh nhạt với ta, không thèm nhận đồ cúng dường của ta. Ngài đã không thương ta, thì ta còn đi tu làm chi nữa cho thêm phiền não. Chi bằng ta hoàn tục quách”.
“….Nhưng ta xuất gia từ lúc hãy còn thơ bé. Bây giờ hoàn tục, không biết nghề ngỗng gì thì làm sao mà sống nhỉ? Thật khó khăn thay! Ồ, hay là ta đem bán bộ y đẹp này mà mua một con dê cái. Loài súc sinh ấy sinh đẻ rất mau. Vừa khi dê đẻ bầy con thứ thứ nhất, ta sẽ đem bán mà kiếm một số vốn. Cứ tuần tự như vậy, ta sẽ có một mớ tiền. Khi có tiền nhiều, ta sẽ cưới một cô vợ. Cô vợ ấy sẽ sinh ra một thằng con trai. Ta sẽ lấy tên tôn giả – cậu ta – mà đặt tên cho thằng con. Rồi ta sẽ để nó ngồi trong một chiếc xe, cùng với vợ đẩy xe đi đến tịnh xá thăm ông cậu. Khi đi giữa đường, trông thấy thằng bé kháu khỉnh ta muốn bồng nó lên nên bảo vợ: “Bây giờ bà đẩy xe đi, để tôi ẳm thằng bé”. Cô vợ là kẻ cứng đầu, cãi lại: “Anh mà ẳm con cái gì, để tôi ẳm nó, anh đẩy xe đi”, rồi nàng cúi xuống ẳm thằng bé. Đì được mấy bước, nàng làm thằng bé rớt xuống, trúng ngay giữa đường bánh xe lăn. Chiếc xe cán lên thằng bé. ta giận quá, mắng cô vợ: ” Mày không chịu để con cho tao bồng, không đủ sức ẳm mà cứ giành lấy nó, để cho nó rớt như vậy. Thật mày đã hại tao! Vừa nói, ta vừa lấy cái gậy đánh nàng một cú…!”
Vừa quạt cho tôn giả, Tăng Hộ cháu vừa để tư tưởng phiêu lưu như trên và đến đoạn kết thúc, y nện cái quạt vào đầu tôn giả một cái cóc. Đọc được dòng tư tưởng của cháu nhờ đã chứng tha tâm thông, tôn giả lên tiếng nói:
– Này, ngươi đánh không trúng mụ đàn bà, mà trúng ngay đầu ta.
Tăng Hộ cháu giật mình nghĩ: “Chết rồi! Tôn giả biết hết tâm niệm của ta, làm sao ta có thể sống đời xuất gia được nữa”. Nghĩ xong, y liệng cái quạt, co giò chạy ra khỏi cổng tịnh xá. Những người bạn đồng lứa chạy theo bắt y lại, dẫn đến trước Phật:
– Tại sao các ngươi bắt Tăng Hộ cháu?
– Bạch Thế Tôn, y chạy trốn nên chúng con bắt lại.
Phật hỏi đương sự:
– Có phải vậy không?
– Bạch Thế Tôn, dạ phải.
– Tại sao con chạy trốn?
– Tại vì con bất mãn.
– Tại sao bất mãn?
Tăng Hộ cháu thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho Phật nghe, đến đoạn y gõ cán quạt vào đầu tôn giả, rồi kết luận:
– Bạch Thế Tôn, chính vì sự việc xảy ra như vậy nên con phải chạy trốn.
Phật an ủi:
– Này thiện nam tử, con đừng sợ. Tâm con người ưa phiêu lưu như vậy. Con phải luyện cho nó thuần thục, định tĩnh mới thoát khỏi trói buộc. “Tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình, đi rất xa, vô hình vô dạng, như ẩn náu hang sâu. Người nào điều phục được tâm, thì thoát vòng ma trói buộc”.
Câu này trở thành Pháp Cú số 37, được lưu truyền đến ngày nay.
Trích sách “Truyện Phật giáo tuyển tập”. Học viện Buddhadhamma.